Thuốc sinh học là gì? Các công bố khoa học về Thuốc sinh học

Thứ thuốc sinh học là các loại thuốc được sản xuất từ các nguồn gốc sống, chẳng hạn như vi khuẩn, nấm, tế bào gốc, hoặc thậm chí từ động vật. Các loại thuốc sin...

Thứ thuốc sinh học là các loại thuốc được sản xuất từ các nguồn gốc sống, chẳng hạn như vi khuẩn, nấm, tế bào gốc, hoặc thậm chí từ động vật. Các loại thuốc sinh học này thường được sản xuất bằng cách sử dụng kỹ thuật bioteknologi, trong đó các loại tế bào hoặc microorganisms được sử dụng để tạo ra các chất có tác dụng thuốc.

Thuốc sinh học có thể được sử dụng để điều trị nhiều loại bệnh, bao gồm ung thư, bệnh tim mạch, bệnh lý miễn dịch, bệnh lý viêm khớp và bệnh lý khác. Những loại thuốc sinh học này thường có khả năng tương tác chính xác với các tác nhân đích trong cơ thể, tạo hiệu ứng tốt và ít tác dụng phụ so với các loại thuốc hóa học truyền thống.

Tuy nhiên, thuốc sinh học thường có giá thành cao hơn và đòi hỏi công nghệ sản xuất phức tạp hơn so với các loại thuốc thông thường. Ngoài ra, việc nghiên cứu và phát triển loại thuốc này cũng đòi hỏi sự đầu tư lớn về thời gian, nguồn lực và kiến thức chuyên môn.
Thuốc sinh học là một dạng thuốc được sản xuất từ các thành phần sống, như DNA hoặc protein, được điều chế thông qua kỹ thuật sinh học. Các thành phần này có thể được cắt tách từ các nguồn tự nhiên như vi khuẩn, nấm, hoặc tế bào gốc, hoặc có thể được sản xuất theo cách nhân tạo trong phòng thí nghiệm bằng cách sử dụng kỹ thuật recombinant DNA.

Các loại thuốc sinh học được phát triển dựa trên hiểu biết sâu sắc về cấu trúc và hoạt động của các phân tử sinh học bên trong cơ thể. Điều này cho phép các nhà nghiên cứu tìm hiểu về cách mà các phân tử này tác động lên các quá trình sinh lý, cấu trúc và chức năng của cơ thể. Khi đã hiểu được cơ chế hoạt động của các phân tử này, các nhà nghiên cứu có thể điều chỉnh chúng để tạo ra các loại thuốc có tác dụng điều trị hoặc ngăn ngừa bệnh.

Một số loại thuốc sinh học phổ biến bao gồm:

1. Kháng thể: Là các protein được tạo ra từ hệ thống miễn dịch của cơ thể hoặc được tạo ra trong phòng thí nghiệm và có khả năng nhận biết và tiêu diệt các chất lạ hoặc tác nhân gây bệnh.

2. Hormone: Đây là các chất tạo ra bởi các tuyến nội tạo trong cơ thể và có tác dụng điều tiết các quá trình sinh lý. Ruột giàm, insulin và erythropoietin là các ví dụ về hormone đã được sản xuất dưới dạng thuốc sinh học.

3. Vaccines: Các loại vaccine sinh học được tạo ra từ vi khuẩn, virus hoặc tế bào gốc đã bị yếu đến mức không gây hại cho cơ thể nhưng vẫn kích thích hệ miễn dịch để tạo ra phản ứng bảo vệ chống lại các tác nhân gây bệnh.

4. Enzymes: Đây là các protein có khả năng xúc tác các phản ứng hóa học trong cơ thể. Một số loại thuốc sinh học có chứa enzyme được sử dụng để điều trị các bệnh genet học hoặc các bệnh do sự thiếu hụt enzyme trong cơ thể gây ra.

Các loại thuốc sinh học này thường có độ tương thích cao hơn với cơ thể con người và ít tác dụng phụ hơn so với thuốc hóa học truyền thống. Tuy nhiên, việc sản xuất và điều chế các loại thuốc sinh học rất phức tạp và đòi hỏi sự nghiên cứu và công nghệ tiên tiến. Do đó, các thuốc sinh học có tend to be more expensive hơn và không phải lúc nào cũng có sẵn cho tất cả các loại bệnh.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "thuốc sinh học":

<i>Klebsiella</i> spp. như Nhiễm Trùng Bệnh Viện: Dịch Tễ Học, Phân Loại, Các Phương Pháp Định Tuổi, và Yếu Tố Gây Bệnh
Clinical Microbiology Reviews - Tập 11 Số 4 - Trang 589-603 - 1998
TÓM TẮT

Vi khuẩn thuộc chi Klebsiella thường gây nhiễm trùng bệnh viện ở người. Đặc biệt, chủng Klebsiella có ý nghĩa y tế quan trọng nhất, Klebsiella pneumoniae, chiếm tỷ lệ lớn trong số các nhiễm trùng đường tiểu, viêm phổi, nhiễm trùng huyết và nhiễm trùng mô mềm mắc phải trong bệnh viện. Các ổ chứa bệnh lý chính cho sự truyền nhiễm của Klebsiella là đường tiêu hóa và tay của nhân viên bệnh viện. Do khả năng lan rộng nhanh chóng trong môi trường bệnh viện, những vi khuẩn này có xu hướng gây ra các đợt bùng phát nhiễm trùng bệnh viện. Các đợt bùng phát trong bệnh viện của các chủng Klebsiella đa kháng thuốc, đặc biệt là những chủng trong khu sơ sinh, thường do các loại chủng mới gây ra, được gọi là các chủng sản xuất β-lactamase phổ rộng (ESBL). Tỷ lệ các chủng sản xuất ESBL trong số các chủng Klebsiella lâm sàng đã liên tục tăng lên trong những năm gần đây. Các hạn chế điều trị dẫn đến đòi hỏi những biện pháp mới để quản lý nhiễm trùng Klebsiella trong bệnh viện. Trong khi các phương pháp định tuổi khác nhau là các công cụ dịch tễ học hữu ích để kiểm soát nhiễm trùng, những phát hiện gần đây về các yếu tố độc lực của Klebsiella đã cung cấp những hiểu biết mới về chiến lược gây bệnh của những vi khuẩn này. Yếu tố gây bệnh của Klebsiella như nang hoặc lipopolysaccharides hiện đang được coi là các ứng viên triển vọng cho nỗ lực tiêm chủng có thể phục vụ như các biện pháp kiểm soát nhiễm trùng miễn dịch.

#chi Klebsiella #Klebsiella pneumoniae #nhiễm trùng bệnh viện #β-lactamase phổ rộng (ESBL) #chiến lược gây bệnh #yếu tố độc lực #kháng thuốc đa dược phẩm #tiêm chủng #vi sinh bệnh viện #kiểm soát nhiễm trùng.
Khai thác sinh học cho vi sinh vật nội sinh và các sản phẩm thiên nhiên của chúng
Microbiology and Molecular Biology Reviews - Tập 67 Số 4 - Trang 491-502 - 2003
TÓM TẮT

Vi sinh vật nội sinh được tìm thấy trong hầu hết các loài thực vật trên Trái đất. Những sinh vật này cư trú trong các mô sống của cây chủ và thiết lập nhiều mối quan hệ khác nhau, từ cộng sinh đến hơi bệnh khuẩn. Nhờ vai trò đóng góp của chúng cho cây chủ, vi sinh vật nội sinh có khả năng tạo ra một loạt các chất có tiềm năng sử dụng trong y học hiện đại, nông nghiệp và công nghiệp. Các kháng sinh mới, thuốc chống nấm, chất ức chế miễn dịch, và hợp chất chống ung thư chỉ là một vài ví dụ trong số những gì đã được tìm thấy sau khi phân lập, cấy, tinh chế và đặc tính hóa một số vi sinh vật nội sinh được lựa chọn trong thời gian gần đây. Khả năng tiềm năng tìm kiếm các loại thuốc mới có thể là ứng cử viên hiệu quả để điều trị các bệnh đang phát triển mới ở người, thực vật và động vật rất lớn.

#vi sinh vật nội sinh #sản phẩm thiên nhiên #cộng sinh #kháng sinh #thuốc chống nấm #chất ức chế miễn dịch #hợp chất chống ung thư #phân lập #cấy vi sinh vật #tinh chế #đặc tính hóa #y học hiện đại #nông nghiệp #công nghiệp
Vật liệu sinh học từ Alginate cho ứng dụng trong y học tái sinh
Materials - Tập 6 Số 4 - Trang 1285-1309

Alginate là một polyme polysaccharide tự nhiên thể hiện tính tương thích sinh học và khả năng phân huỷ sinh học xuất sắc, có nhiều ứng dụng khác nhau trong lĩnh vực y sinh học. Alginate có thể được chế biến dễ dàng thành các vật liệu giá thể ba chiều có thể áp dụng như hydrogel, vi cầu, vi nang, bọt biển, bọt xốp và sợi. Vật liệu sinh học dựa trên alginate có thể được sử dụng làm hệ thống dẫn truyền thuốc và là phương tiện mang tế bào trong kỹ thuật mô. Alginate có thể dễ dàng biến đổi thông qua các phản ứng hoá học và vật lý để thu được các dẫn xuất có cấu trúc, tính chất, chức năng và ứng dụng khác nhau. Việc điều chỉnh cấu trúc và tính chất như khả năng phân hủy sinh học, độ bền cơ học, tính chất gel hóa và ái lực tế bào có thể đạt được thông qua kết hợp với các vật liệu sinh học khác, cố định hóa các ligand cụ thể như peptide và phân tử đường, và liên kết chéo vật lý hoặc hoá học. Bài tổng quan này tập trung vào những tiến bộ gần đây trong việc sử dụng alginate và các dẫn xuất của nó trong lĩnh vực ứng dụng y học, bao gồm chữa lành vết thương, phục hồi sụn, tái tạo xương và dẫn truyền thuốc, những điều này có tiềm năng trong ứng dụng tái tạo mô.

#alginate #vật liệu sinh học #y học tái sinh #chữa lành vết thương #sửa chữa sụn #tái tạo xương #dẫn truyền thuốc #công nghệ mô.
Những tiến bộ gần đây trong việc sử dụng nanocellulose cho ứng dụng y sinh học
Wiley - Tập 132 Số 14 - 2015
TÓM TẮT

Vật liệu nanocellulose đã trải qua sự phát triển nhanh chóng trong những năm gần đây như là vật liệu y sinh học đầy triển vọng nhờ vào các tính chất tuyệt vời về mặt vật lý và sinh học của chúng, đặc biệt là khả năng tương thích sinh học, khả năng phân hủy sinh học và độc tính tế bào thấp. Gần đây, một lượng lớn nghiên cứu đã được hướng vào việc chế tạo các sợi nanocellulose tiên tiến với các hình thái và tính chất chức năng khác nhau. Những sợi nanocellulose này được ứng dụng rộng rãi trong các thiết bị cấy ghép y khoa, kỹ thuật mô, phân phối thuốc, chữa lành vết thương, ứng dụng trong hệ tim mạch và các ứng dụng y khoa khác. Trong bài đánh giá này, chúng tôi điểm lại các tiến bộ gần đây trong thiết kế và chế tạo các vật liệu sinh học tiên tiến dựa trên nanocellulose (tinh thể nano cellulose, cellulose nano vi khuẩn và fibrin nano cellulose) có triển vọng trong ứng dụng y sinh học và thảo luận về yêu cầu của vật liệu đối với từng ứng dụng cũng như các thách thức mà các vật liệu đó có thể phải đối mặt. Cuối cùng, chúng tôi cung cấp cái nhìn tổng quan về hướng phát triển trong tương lai của các vật liệu dựa trên nanocellulose trong lĩnh vực y sinh học. © 2014 Wiley Periodicals, Inc. J. Appl. Polym. Sci. 2015, 132, 41719.

#nanocellulose #vật liệu y sinh học #tương thích sinh học #phân hủy sinh học #sợi cellulose nano #kỹ thuật mô #phân phối thuốc #chữa lành vết thương #ứng dụng tim mạch #vật liệu sinh học #ứng dụng trong y học #hướng phát triển tương lai
Phân phối sinh học và thải trừ của hạt nano bạc phụ thuộc vào thời gian ở chuột Wistar đực
Journal of Applied Toxicology - Tập 32 Số 11 - Trang 920-928 - 2012
TÓM TẮT <đoạn_văn> Hạt nano bạc (AgNPs) là loại hạt nano được sử dụng phổ biến nhất nhờ tính chất kháng khuẩn của chúng. Động lực của nghiên cứu này là (1) phân tích ảnh hưởng của kích thước hạt bạc đến sự phân bố tại các mô của chuột ở các thời điểm khác nhau, (2) xác định sự tích tụ của AgNPs trong các cơ quan mục tiêu tiềm năng của chuột, (3) phân tích phân bố nội bào của AgNPs và (4) kiểm tra sự thải trừ của AgNPs qua nước tiểu và phân. AgNPs được đặc trưng bằng phương pháp tán xạ ánh sáng động (DLS), đo thế zeta, đo diện tích bề mặt BET, kính hiển vi điện tử truyền qua và quét. AgNPs (20 và 200 nm) được tiêm tĩnh mạch (i.v.) cho chuột Wistar đực với liều 5 mg kg–1 trọng lượng cơ thể. Vật liệu sinh học được lấy mẫu sau 24 giờ, 7 và 28 ngày sau khi tiêm. Sử dụng phương pháp khối phổ plasma cảm ứng (ICP‐MS) và kính hiển vi điện tử truyền qua (TEM), người ta quan sát thấy rằng AgNPs dịch chuyển từ máu đến các cơ quan chính và nồng độ bạc trong mô cao hơn đáng kể ở chuột được điều trị bằng AgNPs 20 nm so với AgNPs 200 nm. Nồng độ bạc cao nhất được tìm thấy trong gan sau 24 giờ. Sau 7 ngày, mức độ bạc cao đã được quan sát trong phổi và lá lách. Nồng độ bạc trong thận và não tăng lên trong suốt thí nghiệm và đạt nồng độ cao nhất sau 28 ngày. Hơn nữa, nồng độ AgNPs cao nhất được quan sát thấy trong nước tiểu sau 1 ngày kể từ khi tiêm, duy trì cao trong 14 ngày và sau đó giảm. Mức độ bạc trong phân của chuột cao nhất trong vòng 2 ngày sau khi tiêm AgNPs và sau đó giảm. Bản quyền © 2012 John Wiley & Sons, Ltd.
#hạt nano bạc #phân bố sinh học #thải trừ #chuột Wistar #kích thước hạt #plasma cảm ứng
ĐỊNH DANH LOÀI VÀ ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ NHẠY CẢM VỚI THUỐC KHÁNG NẤM CỦA VI NẤM CANDIDA PHÂN LẬP TỪ ĐƯỜNG TIÊU HÓA BỆNH NHI SƠ SINH TẠI BỆNH VIỆN TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC HUẾ
Tạp chí Truyền nhiễm Việt Nam - Tập 3 Số 35 - Trang 32-38 - 2021
Đặt vấn đề: Nấm Candida ở đường tiêu hóa là tình trạng thường gặp ở trẻ sơ sinh. Vi nấm có thể gây thể bệnh phổ biến là viêm niêm mạc miệng lưỡi ở độ tuổi này. Đồng thời nấm Candida cũng làm một trong các tác nhân gây nhiễm trùng sơ sinh thường gặp ở ICU Nhi. Mục tiêu: 1. Định danh loài vi nấm Candida ở đường tiêu hóa của bệnh nhi sơ sinh, 2. Đánh giá mức độ nhạy cảm với thuốc kháng nấm của vi nấm phân lập. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang, thực hiện trên các bệnh nhi được chẩn đoán bệnh lý đang điều trị tại phòng Nhi Sơ sinh, khoa Sản tại bệnh viện trường Đại học Y Dược Huế, thời gian từ 1.2020 -12.2020. Kết quả: Tỷ lệ nấm Candida hoại sinh tại đường tiêu hóa là 28,83%. Trong đó, C. non albicans chiếm tỷ lệ cao hơn so với C. albicans (76,67% vs 23,33%).  Không ghi nhận tình trạng đề kháng của Candida với amphotericine B và nystatin.Tỷ lệ đề kháng của vi nấm candida với fluconazole, itraconazole, voriconazole, caspofungin và 5-flucystosin lần lượt là 6,67%, 3,33%, 3,33%, 23,33% và 16,66%. C. albicans nhạy cảm tốt với nhóm azoles và caspofungin. Trong khi đó, C. non albicans có tỷ lệ nhất định đề kháng với các thuốc này. C.albicans có tỷ lệ đề kháng với 5-flucytosin cao hơn C. non albicans (p<0,05). Hiện tượng đề kháng ≥2 loại thuốc gặp ở 34,78% C. non albicans. Kết luận: C. non albicans có phân bố phổ biến ở đường tiêu hóa bệnh nhi tại phòng Nhi Sơ sinh, khoa Sản bệnh viện trường Đại học Y Dược Huế. Các chủng Candida được phân lập đều nhạy cảm tốt với amphotericin B và nystatin. C. albicans có hiện tượng đề kháng đáng kể với 5 flucystocine. C. non albicans đề kháng với azole, 5 flucystocine, caspofungin.
#Candida hoại sinh #mức độ nhạy cảm với thuốc kháng nấm #bệnh nhi sơ sinh
12. Thực trạng sử dụng thuốc chống viêm ở bệnh nhân viêm khớp dạng thấp đang điều trị thuốc sinh học
Nghiên cứu được thực hiện nhằm tìm hiểu thực trạng sử dụng thuốc chống viêm ở bệnh nhân viêm khớp dạng thấp đang điều trị thuốc sinh học tại Trung tâm Cơ Xương Khớp, Bệnh viện Bạch Mai. Nghiên cứu mô tả cắt ngang gồm 153 bệnh nhân được chẩn đoán viêm khớp dạng thấp và đang điều trị thuốc sinh học tại Trung tâm Cơ Xương Khớp, Bệnh viện Bạch Mai trong khoảng thời gian từ tháng 8/2019 đến 8/2022. Kết quả nghiên cứu cho thấy có 81% bệnh nhân dùng thuốc chống viêm, trong đó nhóm glucocorticoid (GC) tỉ lệ chiếm 79%, còn thuốc chống viêm không steroid (Non-steroidal anti-inflamatory drugs - NSAIDs) là 21%. Liều GC chủ yếu là liều thấp (tương đương ≤ 8mg methylprednisolone/ ngày) chiếm tỉ lệ tới 97%, liều thuốc được sử dụng nhiều nhất là 4 mg chiếm tỉ lệ 79,7%. Với thuốc NSAIDs, thuốc ức chế chọn lọc COX-2 được sử dùng nhiều nhất với tỉ lệ 65,3%, trong đó celecoxib chiếm tỉ lệ nhiều nhất với tỉ lệ 61,5%. Như vậy đa số bệnh nhân đang điều trị thuốc sinh học vẫn tiếp tục dùng thuốc chống viêm, với tỉ lệ dùng thuốc GC cao hơn NSAIDs. Bệnh nhân dùng GC chủ yếu với liều thấp, NSAIDs chọn lọc COX-2 được dùng nhiều hơn.
#Viêm khớp dạng thấp #thuốc chống viêm #glucocorticoid #NSAIDs #thuốc sinh học
THỰC TRẠNG ĐIỀU TRỊ THUỐC SINH HỌC Ở BỆNH NHÂN VIÊM KHỚP DẠNG THẤP TẠI KHOA CƠ XƯƠNG KHỚP BỆNH VIỆN BẠCH MAI
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 508 Số 1 - 2022
Mục tiêu: Mô tả thực trạng sử dụng thuốc sinh học (bDMARD) trong điều trị viêm khớp dạng thấp (VKDT) tại khoa Cơ Xương Khớp- Bệnh viện Bạch Mai (khoa CXK-BVBM) và xác định một số yếu tố ảnh hưởng. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang tiến cứu kết hợp hồi cứu trên 71 bệnh nhân VKDT có dùng bDMARDs tại địa điểm nghiên cứu từ 01/2017 đến 12/2020. Kết quả: bDMARD hay được chọn đầu tiên là thuốc ức chế IL-6 (83,1%), có 29,1% bệnh nhân chuyển sang bDMARD thứ 2 (thường gặp nhất là chuyển sang nhóm ức chế TNF), thời gian duy trì thuốc của nhóm ức chế IL-6 là 131 tuần (CI95%: 108,2-153,8); của nhóm ức chế TNF là 46 tuần (CI95%: 10,4-81,6), (p=0,007). Tỉ lệ tuân thủ điều trị thấp (29,6%). Lý do hàng đầu của không tuân thủ điều trị là kinh tế (35,6%) và đáp ứng tốt (31,4%); của giãn liều là đáp ứng tốt (62%) và kinh tế (24,6%); của dừng thuốc là do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 (40,6%), hết thuốc (21,7%) và kinh tế (20,3%); và của đổi thuốc là không đáp ứng (30,3%), hết thuốc (36,4%) vàkinh tế (27,3%). Kết luận: bDMARDs nhóm ức chế IL-6 được lựa chọn để khởi đầu điều trị nhiều nhất và có thời gian duy trì lâu hơn nhóm ức chế TNF. Tỉ lệ tuân thủ điều trị thấp và lý do chính của không tuân thủ là không đủ khả năng tài chính. Các yếu tố như không đủ khả năng tài chính, ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 và hết thuốc, hoặc không đáp ứng với bDMARDs điều trị là những lý do chính khiến cho bệnh nhân đổi hay dừng thuốc.
#viêm khớp dạng thấp #thuốc sinh học #thực trạng #Bệnh viện Bạch Mai
Nghiên cứu một số kích thước bàn tay, kích thước chi trên, chiều cao đứng và cân nặng của sinh viên trường Đại học Y Dược Thái Bình
Đặt vấn đề: Nghiên cứu từ các kích thước nhân trắc bàn tay, kích thước chi trên, chiều cao đứng và cân nặng trên người đã cho ra nhiều ứng dụng quan trọng trong các chuyên ngành như Phục hồi chức năng, Ngoại khoa, Chấn thương chỉnh hình, Y học lao động… Mục tiêu: Xác định một số kích thước bàn tay, kích thước chi trên, chiều cao đứng và cân nặng của sinh viên Trường Đại học Y Dược Thái Bình. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả, cắt ngang trên 620 sinh viên Trường Đại học Y Dược Thái Bình từ 8/2021 - 03/2022. Kết quả: Chỉ số BMI trung bình 18,91 ± 2,16 ở nữ giới và 20,66 ± 3,13 ở nam giới. Trong nhóm kích thước bàn tay, chiều dài bàn tay nam giới (17,82 ± 0,83 cm) lớn khác biệt so với nữ giới (16,42 ± 0,74 cm), độ dài ngón giữa lớn nhất từ 73 - 78 mm, ngón áp út luôn dài hơn ngón trỏ, khoảng 72 mm so với 58 mm ở nam giới và 67 mm so với 53 mm ở nữ giới. Ngón cái có độ rộng nhất, sau đó là ngón giữa, ngón trỏ, ngón áp út và ngón út (từ 15,5 - 12,0 mm). Độ dày các ngón cũng tương tự; tuy nhiên, ngón áp út dày hơn ngón trỏ (8,92 ± 0,78 mm so với 8,29 ± 0,78 mm ở nam giới). Chiều dài chi trên ở nam giới lớn hơn so với dài chi trên ở nữ giới (76,12 cm ở nam giới và 70,17 cm ở nữ giới) với p < 0,05; tuy nhiên, chiều dài xương cánh tay ở hai giới có sự chênh lệch ít nhất (29,19 cm ở nam giới so với 27,4 cm ở nữ giới). Kết luận: Các kích thước nhân trắc bàn tay, chiều dài chi trên, chiều cao đứng và cân nặng ở nam giới đều lớn hơn nữ giới, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. Chiều dài và độ dày ngón áp út luôn lớn hơn ngóntrỏ, nhưng độ rộng thì ngược lại với p < 0,05.
#Nhân trắc bàn tay; Chi trên; Chiều cao đứng; Cân nặng
TÌNH TRẠNG ĐIỀU TRỊ THUỐC SINH HỌC Ở BỆNH NHÂN VIÊM CỘT SỐNG DÍNH KHỚP TẠI KHOA CƠ XƯƠNG KHỚP BỆNH VIỆN BẠCH MAI
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 507 Số 2 - 2021
Mục tiêu: Mô tả thực trạng sử dụng thuốc sinh học trong điều trị viêm cột sống dính khớp tại khoa Cơ Xương Khớp- Bệnh viện Bạch Mai. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang tiến cứu kết hợp hồi cứu trên 161 bệnh nhân viêm cột sống dính khớp (VCSDK) có dùng thuốc sinh học tại địa điểm nghiên cứu từ 01/2018 đến 7/2021. Kết quả: Thuốc sinh học hay được chọn đầu tiên là nhóm thuốc thuộc nhóm kháng TNF-α (69,6%) và thuốc thuộc nhóm kháng IL-17 là Secukinumab chiếm 30,4%. Có 27,3% bệnh nhân chuyển sang thuốc sinh học khác. Tỉ lệ tuân thủ điều trị là 26,1%. Lý do hàng đầu của không tuân thủ điều trị là: kinh tế (35,2%) và đáp ứng tốt (31,8%), đại dịch COVID-19 (17,6%); của giãn liều là đáp ứng tốt (66,3%), kinh tế (12,8%), đại dịch Covid-19 (10,4%); của dừng thuốc phần lớn là do lý do kinh tế chiếm 50%, các lý do khác: tác dụng phụ (14,3%), đại dịch Covid-19 (12,2%); và của đổi thuốc là không đáp ứng thứ phát (34%), không đáp ứng nguyên phát (24%) và tác dụng phụ của thuốc (20%). Kết luận: Thuốc sinh học được ưu tiên điều trị là các thuốc thuộc nhóm kháng TNF-α. Tỷ lệ bệnh nhân tuân thủ điều trị còn thấp. Lý do không tuân thủ hàng đầu là kinh tế, tiếp đến là do sự đáp ứng tốt trong quá trình điều trị và ảnh hưởng của đại dịch Covid-19. Các nguyên nhân: kinh tế, ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, hết thuốc, tác dụng phụ và không đáp ứng với thuốc sinh học là những lý do chính khiến cho bệnh nhân đổi thuốc hoặc ngừng thuốc trong quá trình điều trị.
#viêm cột sống dính khớp #thuốc sinh học #tuân thủ điều trị
Tổng số: 47   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5